BỆNH CHỨNG THUỐC ĐIỀU TRỊ BỆNH TRÚNG PHONG (kỳ 1)
(Não trúng phong – Đột quỵ não)
Bệnh trúng phong là do chính khí khuy hư, chế độ ăn uống, tình chí, nội thương lao quyện làm khí huyết nghịch loạn, sản sinh ra phong, hỏa, đàm, ứ, dẫn đến tắc nghẽn mạch máu não hoặc xuất huyết não bệnh chứng biểu hiện lâm sàng chủ yếu là đột nhiên tối sầm ngã lăn (hôn mê bất tỉnh), liệt nửa người, miệng mắt méo lệch, nói năng ngọng nghịu hoặc không nói được, toàn thân tê. Căn cứ vào mức độ tổn thương của não tủy, biểu hiện lâm sàng có phân ra trúng kinh lạc, trúng tạng phủ. Bệnh thường gặp ở người trung niên lão niên. Tất cả các mùa có thể bị ảnh hưởng nhưng phổ biến nhất là vào mùa đông và mùa xuân.
Bệnh chứng thuốc điều trị bệnh trúng phong 1 - Hình minh họa |
“Nội kinh” mặc dù không đề cập rõ tên bệnh của trúng phong, nhưng có ghi chép về các chứng bệnh như "đại quyết", "bạc quyết", "phó kích", "thiên khô" và "phong phi" và một vài biểu hiện lâm sàng tương tự có liên quan đến trúng phong hôn mê đứt mạch máu và thời kỳ hậu di chứng. Nguyên nhân và bệnh sinh của bệnh này cũng có một số hiểu biết, chẳng hạn như "Linh Khu – Thích tiết chân tà”: “ Nếu hư tà vào người mà chỉ ở nửa thân, nếu tấn công vào trong sâu tức là sẽ lưu lại để ở chung với doanh vệ, làm cho doanh vệ ngày càng suy, chân khí sẽ ra đi, như vậy tà khí sẽ lưu lại 1 mình, gây thành chứng Thiên khô ”
Ngoài ra, nó cũng được công nhận rằng sự xuất hiện của bệnh có liên quan đến thể chất, chế độ ăn uống và kích thích tinh thần của cá nhân. “Tố vấn – Thông bình hư thực luận” có nêu: "phó kích", "thiên khô" … những chứng đó, phần nhiều do hạng người giàu sang, béo tốt, ăn nhiều chất cao lương mà sinh ra
Còn chỉ ra rõ ràng rằng những thay đổi bệnh lý của trúng phong nằm ở trong đầu, là do bởi khí huyết nghịch không giáng. “Tố vấn - Điều kinh luận nói: “Huyết cùng với khí dồn cả lên trên, thời là đại quyết. Quyết thời bạo tử.
Đúng vậy, nguyên nhân, bệnh sinh, cùng với điều trị bệnh trúng phong, đã được trình bày và phân tích nhiều qua các thời kỳ. Từ quan điểm của sự phát triển của nguyên nhân, đại thể phân làm hai giai đoạn. Trước triều đại nhà Đường Tống đều lập luận rằng “nội hư tà trúng”, phương dược trị liệu thường được sử dụng sơ phong khư tà, bổ ích chính khí.
Như “Kim quỉ yếu lược” được đặt tên chính thức là bệnh trúng phong. Cho rằng nguyên nhân bệnh trúng phong là lạc mạch rổng hư, phong tà nhập vào người, phương pháp phân loại, chẩn đoán, điều trị, phán đoán bệnh tình nặng nhẹ và dự đoán tiên lượng của họ sáng lập rất hữu ích
Sau triều đại nhà Đường Tống, đặc biệt là thời đại Kim Nguyên, rất nhiều y gia lập luận rằng “nội phong”, đó là một bước ngoặt lớn trong lý thuyết về nguyên nhân bệnh trúng phong. Trong đó Lưu Hà Gian chủ trương “Thận thủy bất túc, tâm hỏa bạo thậm”; Lý Đông Viên cho rằng “Hình thể mập khí suy, gốc ở khí”; Chu Đan Khê chủ trương “thấp đàm hóa nhiệt sinh phong”; Đời nguyên Vương Lý từ nguyên nhân bệnh góc độ có phân ra “ Chân trúng”, “Loại trúng”
Thời Minh Trương Cảnh Nhạc đề ra thuyết “Phi phong”, “nội thương tích tổn” là nguyên nhân gốc rễ dẫn đến bệnh này; thời Minh Lý Trung Tử phân chia rõ ràng bệnh trúng phong thành hai loại: bế và thoát, nó vẫn được sử dụng trong thực hành lâm sàng. Thời Thanh Y Gia Diệp Thiên Sĩ, Thẩm kim Ngao, Vưu Tại Kinh, Vương Thanh Nhậm vv, làm phong phú thêm việc điều trị và kê đơn bệnh trúng phong, và hình thành một quy tắc điều trị tương đối hoàn chỉnh cho bệnh trúng phong
Cuối nhà Thanh các y gia hiện đại Trương Bá Long, Trương Sơn Lôi, Trương Tích Thuần đều cho rằng căn bệnh này chủ yếu là do mất cân bằng âm dương, khí huyết nghịch loạn, trực trúng vào não, Tại thời điểm này, sự hiểu biết và điều trị bệnh sinh của bệnh trúng phong đã được cải thiện. Trong những năm gần đây, công tác phòng chống, chẩn đoán, điều trị, phục hồi chức năng và chăm sóc bệnh trúng phong đã từng bước hình thành các tiêu chuẩn và định mức tương đối đồng đều, nhiều phương pháp điều trị, hiệu quả cũng đã được cải thiện rất nhiều
Bệnh trúng phong là một căn bệnh độc lập. Các biểu hiện lâm sàng của nó tương tự như tây y gọi là bệnh mạch máu não. Bệnh mạch máu não chủ yếu bao gồm hai loại thiếu máu cục bộ và xuất huyết. Cho dù bệnh mạch máu não xuất huyết hoặc thiếu máu cục bộ đều có thể tham khảo biện chứng luận trị ở mục này
I. CƠ CHẾ NGUYÊN NHÂN BỆNH
1. Nội thương tích tổn chính khí suy “40 tuổi âm khí suy nữa, sinh hoạt thường ngày suy kém”. Tuổi già cơ thể suy nhược, hoặc bệnh lâu ngày khí huyết suy tổn, mạch não thất dưỡng. Khí hư sẽ là cho huyết không sự vận chuyển được, lưu lượng huyết kém, huyết không lưu thông, sẽ dẫn đến não mạch bị ứ trệ không thông; âm huyết khuy hư tức âm không chế được dương, nội phong động khởi, sinh đàm trọc, huyết ứ không thông động nhiễu thanh khiếu, đột phát bệnh này. Như “Cảnh Nhạc Toàn Thư – Phi phong” nói: Ngã lăn không rỏ lý do gì, đều do nội thương tích tổn lụn bại gây ra”
2.Làm việc quá sức, chấn thương bên trong, mệt mỏi quá mức, suy giảm âm tinh, âm hư hỏa vượng, hoặc âm không chế được dương dễ khiến dương khí đến ngạo mạn, kích động phong dương, nội phong toàn động, khiến hỏa khí câu phù, hoặc đàm trọc, huyết ứ thượng ủng thanh khiếu lạc mạch
3. Ăn uống nhiều chất béo ngậy chất cồn làm tỳ mất đi sự kiện vận, dẫn đễn tỳ vị bị thụ thượng, tỳ mất vận hóa, đàm trọc nội sinh, uất kết lâu ngày hóa nhiệt, đàm nhiệt tương kết, ủng trệ kinh mạch, thượng mông thanh khiếu; hoặc thể chất vốn can vượng, khí cơ uất kết, khắc phạt tỳ thổ, đàm trọc nội sinh; hoặc can uất hóa hỏa, làm tân dịch thành đàm, đàm uất tương kết, cùng với phong tà, quấy rối kinh mạch, phát sinh bệnh này. Trong “Đan Khê Tâm Pháp – Trúng phong” gọi là “thấp thổ sinh đàm, đàm sinh nhiệt, nhiệt sinh phong”. Ăn uống không tiết độ, tỳ mất kiện vận, khí huyết sinh hóa không về nguồn, tinh khí huyết bị suy thiểu, mạch não thất dưỡng, lại cùng với các tình chí quá độ, mệt mỏi quá mức và các nguyên nhân khác, khiến khí huyết nghịch loạn, thần minh của não bị mất kiểm soát, sẽ phát ra trúng phong
4. Tình chí quá độ thất tình tổn thương, can mất đi sự điều đạt, khí cơ uất trệ, huyết hành không thông, ứ kết tại mạch não; giận dữ thương can, thì can dương bạo trướng, hoặc tâm hỏa bạo thịnh, phong hỏa cùng bùng lên, huyết theo khí nghịch, thượng xung phạm não. Tất cả những thứ này đều dễ gây ra khí huyết nghịch loạn, thượng nhiễu não khiếu mà phát trúng phong. Đặc biệt là cơn giận dữ thường thấy nhất của căn bệnh này
Nhìn vào căn bệnh này, do rối loạn chức năng của các cơ quan nội tạng của bệnh nhân, vốn thường khí huyết hư hoặc đàm trọc, ứ huyết nội sinh, kết hợp lao quyện nội thương, lo lắng suy nghĩ tức giận, ăn uống no say quá độ, khí hậu thay đổi đột ngột vv là nguyên nhân gây bệnh. Nguyên nhân như thay đổi đột ngột trong khí hậu, dẫn đến huyết ứ trở trệ, đàm nhiệt nội uẩn, hoặc dương hóa phong động, huyết theo khí nghịch, dẫn đến tắc nghẽn mạch máu não hoặc xuất huyết não gây nên đột ngột té ngã hôn mê liệt nữa người, phát sinh trúng phong
Bệnh của nó nằm trong não và liên quan chặt chẽ đến tâm, thận, can và tỳ. Bệnh sinh của nó có hư (âm hư, khí hư), hoả (can hỏa, tâm hỏa), phong (can phong), đờm (phong đờm, thấp đờm), khí (khí nghịch), huyết (huyết ứ), 6 điều này nhất định ảnh hưởng tương tác lẫn nhau và tương tác trong một số điều kiện nhất định. Căn bệnh này chủ yếu gốc hư ngọn thực (bản hư tiêu thực) thượng thịnh hạ hư. Trong đó do can thận âm hư, khí huyết suy thiểu, ngọn do phong hỏa cùng phát sinh, đàm thấp ủng thịnh, ứ huyết trở trệ, khí huyết nghịch loạn. Gốc bệnh cơ bản là do khí huyết nghịch loạn, thượng phạm ở não, thần minh của não bị mất kiểm soát
Bệnh chứng thuốc điều trị bệnh trúng phong 1 - Các triệu chứng báo trước |
II. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG
Chứng hậu đặc trưng của bệnh trúng phong là tắc nghẽn mạch máu não hoặc xuất huyết não gây nên tổn thương tủy não. Các triệu chứng chính là hôn mê, liệt nữa người, nói năng ngượng nghịu hoặc không nói được hoặc miệng lưỡi méo lệch, khắp người tê. Các triệu chứng thứ cấp khác như đầu đau, choáng mặt, nôn mữa, nhị tiện không kiểm soát hoặc không thông, buồn bực khó chịu, co giật, nhiều đàm, nấc cụt. Biểu hiện của lưỡi có thể có lưỡi cứng, lưỡi lệch, lưỡi co rút lại, chất lưỡi có màu đỏ sậm hoặc đỏ, lưỡi có điểm ứ huyết, ứ ban; rêu lưỡi trắng mỏng, nhờn, hoặc màu vàng nhờn; mạch huyền, hoặc huyền hoạt, huyền tế hoặc kết hoặc đại vv
1. Ban đầu có thể thấy hôn mê. Nhẹ thì tinh thần ngẩn ngơ, mệt mõi mê muội, ngủ mê man. Nặng thì hôn mê bất tỉnh hoặc không hiểu sự lý gì. Một số bệnh nhân khi phát bệnh họ vẫn tỉnh táo, vài ngày sau dần dần mới hôn mê, hầu hết các bệnh nhân thường kèm theo các triệu chứng như mê sảng, bồn chồn, vật vã không yên.
2. Liệt Nửa Người. Nhẹ thì cảm thấy tay chân tê, mất cảm giác, không có sức hoặc hoạt động kém, nặng thì liệt hoàn toàn. Có người chi thể yếu đuối hoặc liệt, cũng có người chi thể bại xụi
Sự khởi phát của bệnh nhân chỉ có chi thể yếu, nhưng dần dần tệ hơn, thậm chí bại xụi, hoặc phát bệnh đã thấy toàn thân bại liệt. Giai đoạn cấp tính, phổ biến thường thấy là liệt nữa người dạng mềm rũ. Số ít thì co cứng không duỗi được. Giai đoạn di chứng, nhiều trường hợp co quắp lại, đặc biệt nghiêm trọng nhất là độ cứng của các khớp ngón tay, bị co cứng không co duỗi được
3. Miệng lưỡi méo lệch. Phổ biến thường thấy với liệt nữa người, lưỡi lệch về bên chi thể liệt, thường đi kèm với tiết nước bọt.
4.Nhẹ thì nói năng ngượng nghịu hoặc không nói được, hiếm thấy lời nói chậm chạp không lưu loát, đọc không rõ ràng, bệnh nhân cảm thấy lưỡi cứng; nặng thì không nói được. Một số bệnh nhân thường trước khi khởi phát bệnh, có một thời gian nói năng không rõ ràng, phục hồi trở lại bình thường
Sự khởi đầu của bệnh thường có triệu chứng báo trước. Chẳng hạn như chóng mặt, đầu đau, ù tai, đột nhiên xuất hiện thoáng qua nói năng không rõ ràng hoặc toàn thân tê, nhìn vật hoa mắt, thậm chí hôn mê (vựng quyết), trong ngày phát tác nhiều lần, hoặc nhiều lần lặp lại trong vòng vài ngày. Nếu đột nhiên nội phong toàn động, đàm hỏa giảo kết phát bệnh, trong giai đoạn cấp tính xuất hiện nôn ra máu, tiểu ra máu, sốt cao, suyễn xúc, nấc cụt, thậm chí phát quyết, đồng tử lúc lớn lúc nhỏ, bệnh tình nguy cấp, đa phần khó chữa trị
III. CHẨN ĐOÁN
1. Với các triệu chứng chính như tinh thần ngẩn ngơ, mệt mõi mê muội, thậm chí hôn mê bất tỉnh hoặc không hiểu sự lý gì, liệt nữa người, miệng lưỡi méo lệch, lưỡi cứng nói năng ngượng nghịu hoặc không nói được, khắp người tê.
2. Phát bệnh ban đầu cấp tính
3. Phát bệnh do nhiều nguyên nhân, sự khởi đầu của bệnh thường có triệu chứng báo trước, chẳng hạn như chóng mặt, đầu đau, toàn thân tê, sức yếu …
4. Độ tuổi từ 40 tuổi trở lên (nay thấy 30 tuổi trở lên)
5. Kiểm tra huyết áp, kiểm tra dịch não tủy, một số dịch vụ khác, CT, Scan, MRI … rất hữu ích cho việc chẩn đoán.
Tại thời điểm chẩn đoán, chẩn đoán dựa trên cơ sở của bệnh trúng phong, căn cứ 2 loại hình lớn của trúng phong là trúng kinh lạc và trúng tạng phủ thần thức có mê muội không
Giai đoạn cấp tính của trúng phong là trong vòng hai tuần sau khi khởi phát, loại trúng tạng phủ có thể lên tới một tháng; thời gian phục hồi là hai tuần hoặc một tháng đến sáu tháng; thời kỳ di chứng kéo dài hơn nửa năm
IV. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
1. Miệng méo (liệt mặt) được gọi là điếu tuyến phong, các triệu chứng chính là miệng mắt bị méo lệch, và thường kèm theo đau phía sau tai, vì miệng mắt méo lệch đôi khi kèm theo tiết nước bọt, lời nói không rõ ràng. Chủ yếu là do chính khí bất túc, phong tà xâm nhập vào mạch lac, khí huyết tý trở, có thể bị ảnh hưởng bởi các độ tuổi khác nhau. Bệnh trung phong miệng lưỡi méo lệch thường đi kèm với mình mẩy tứ chi tê liệt hoặc tê liệt một phần, bệnh do khí huyết nghịch loạn, huyết tùy khí nghịch, thượng nhiễu não khiếu dẫn đến tổn thương tủy não, thường thấy nhiều ở người trung niên và người già
2. Bệnh động kinh và trúng phong tạng phủ đều có chứng đột nhiên hôn mê. Bệnh động kinh phát tác cấp tính, lúc hôn mê tứ chi co giật, miệng sùi bọt mép, 2 mắt trực thị (hướng lên trên), hoặc kêu to bất thường, sau khi thức dậy như người bình thường, và chân tay hoạt động vẫn bình thường, tỷ lệ mắc bệnh chủ yếu là thanh niên thiếu niên
3. Chứng quyết là chứng tự nhiên ngã lăn ra bất tỉnh, sắc mặt trắng nhạt, chân tay lạnh, nhưng một thời gian sau sẽ tỉnh lại dần, sau khi tỉnh, không để lại di chứng nào như mắt lệch miệng méo, liệt nửa người.
4. Kinh bệnh thì tứ chi co giật, lưng cứng thẳng, thậm chí mình mẩy uốn cong là chủ chứng. Bệnh cũng có thể kèm thần hôn (tối xầm) nhưng không có các triệu chứng như liệt nửa người, miệng lưỡi méo lệch, nói năng không rõ ràng
5. Nuy bệnh là tay chân mềm yếu không có sức, gân mạch xẹp xuống mềm nhũn, cơ nhục teo là triệu chứng chính, khởi phát chậm, lúc phát bệnh không đột nhiên té ngã bất tỉnh nhân sự, miệng lưỡi méo lệch, nói năng không rõ ràng. Người ta thường thấy 2 chi dưới hoặc tứ chi, hoặc thấy có người cơ nhục teo, hoặc thấy gân thịt máy giật (cân dịch nhục mẫn).
Bệnh trúng phong cũng thấy có chi thể cơ nhục tàn lụi, thường phổ biến trong thời kỳ hậu di chứng do liệt nữa người gây ra
V. BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ
A. BIỆN CHỨNG YẾU ĐIỂM
1. Hiểu được bệnh sử và triệu chứng báo trước của người trung lão niên, thể chất hư nhược hoặc hình thể béo phì, mà thường biểu hiện chóng mặt, đau đầu, hoặc chân tay tê thoáng qua, miệng lưỡi méo lệch, nghiêng, nói năng ngượng nghịu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến như khí hậu biến đổi đột ngột, lao phiền quá độ, tình cảm tương kích, té ngã. Nếu bệnh khởi phát cấp tính, thông thường chẩn đoán không khó với các triệu chứng đầu tiên như liệt nữa người, miệng lưỡi méo lệch, nói năng ngượng nghịu. Nếu như thấy bệnh khởi phát bị rối loạn thần chí, cần phải kiểm tra sức khỏe và tìm hiểu rõ hơn về bệnh sử
2. Trên lâm sàng mức độ tổn thương đối với não cần phân biệt 2 loại hình lớn là trúng kinh lạc trúng tạng phủ, có hay không có thần thức ngu muội. Phân biệt cơ bản ở trúng phong kinh lạc thông thường thần chí không thay đổi, biểu hiện là không té ngã hôn mê mà đột nhiên phát sinh miệng mắt méo lệch, nói năng không rỏ ràng, liệt nữa người; trúng tạng phủ thì xuất hiện đột nhiên té ngã bất tỉnh nhân sự, liệt nữa người, miệng lưỡi méo lệch, lưỡi cứng nói ngượng hoặc không nói được, toàn thân tê dại, thần chí hốt hoảng hoặc mê muội, và thường để lại di chứng, trúng kinh lạc, bệnh tương đối nông tình trạng nhẹ; trúng tạng phủ, bệnh tình sâu tình trạng nặng hơn.
3.Phân biệt rỏ bệnh trúng phong cấp tính là bởi bản hư tiêu thực (gốc hư ngọn thực), hầu hết các giai đoạn cấp tính có chủ chứng là tiêu thực (ngọn thực), căn cứ biểu hiện trên lâm sàng chú ý phân biệt được thuộc hỏa, phong, đàm, huyết.
Loại người tính khí thất thường, mặt đỏ mắt đỏ, miệng đắng khô, khi khởi phát lưng trên của cơ thể nóng, rối loạn bồn chồn, táo bón, nước tiểu màu vàng, lưỡi đỏ rêu vàng đa phần thuộc hỏa nhiệt
Nếu bị đau đầu, chóng mặt, vv đột nhiên xuất hiện liệt nửa người, thậm chí hôn mê, co giật, mình mẩy uốn cong xương sống cứng thẳng, thuộc nội phong vượt động
Loại người hình phì thể phong (béo bệu), sau khi bị bệnh tật có nhiều đờm hoặc ngất xỉu, trong cổ họng kêu to, rêu lưỡi trắng nhớt, thuộc đàm trọc ủng thịnh
Nếu có đau đầu, cơn đau kịch tính hơn, lưỡi có màu tím đậm, đa phần thuộc huyết.
Thời kỳ phục hồi và thời gian di chứng, chủ yếu biểu hiện là khí âm bất túc, dương khí hư nhược. Nếu chi thể liệt, tay chân sưng tấy (phù), miệng chảy nước dải, khó thở mồ hôi tự phát, thuộc khí hư; nếu kiêm có ố hàn chi lãnh, đó là biểu hiện của dương khí hư suy; nếu kiêm có tâm phiền mất ngủ, miệng khô cổ họng khô, bàn tay bàn chân nóng, lưỡi đỏ ít rêu, thuộc âm hư nội nhiệt.
4. Phân biệt chứng bế chứng thoát, tà khí nội bế thanh khiếu, thấy chứng hôn mê, hàm răng nghiến chặt, khẩu cấm (miệng không nói được), mình mẩy tay chân co rút cứng, thuộc thực chứng, căn cứ vào có hay không có nhiệt tượng, phân ra dương bế, âm bế
Dương bế là do đàm nhiệt bế trở thanh khiếu, thấy chứng mình nóng mặt đỏ, hơi thở hôi, bồn chồn không yên, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch huyền hoạt mà sác; âm bế là do đàm thấp nội bế thanh khiếu, thấy chứng sắc mặt trắng môi thâm, nằm thiêm thiếp (tỉnh ngoại bất phiền), tứ chi lạnh, nhiều đàm nhớt, rêu lưỡi trắng nhầy, mạch trầm hoạt hoặc hoãn
Dương bế và âm bế có thể chuyển đổi cho nhau, dựa trên những thay đổi biểu hiện lâm sàng, lưỡi, mạch phán đoán toàn diện.
Chứng thoát là do chân dương của năm tạng tán thoát ra bên ngoài, thấy chứng đột nhiên ngã ra mê man bất tỉnh, mắt nhắm mồm há, tứ chi buông lỏng liệt, 2 bàn tay xòe ra chân thì lạnh vã nhiều mồ hôi, nhị tiện tự đi không tự chủ, thở (bằng mũi) yếu, đó là thời kỳ nguy hiểm của trúng phong
Ngoài ra, trên lâm sàng còn có nội bế thanh khiếu cùng với ngoại thoát hư tượng, gọi là “nội bế ngoại thoát”, đây là thời điểm quan trọng diễn biến sự an nguy, phải chú trọng cao độ
5. Xác định bệnh thế thuận nghịch chú ý trên lâm sàng để phân biệt "thần" của bệnh nhân, đặc biệt là những thay đổi trong ý thức và con ngươi
Trúng phong tạng phủ, phát bệnh đột nhiên ngã ra mê man bất tỉnh không biết gì, phần nhiều do thực tà làm bế tắc thanh khiếu, bệnh ở vị trí sâu, bệnh tình nghiêm trọng
Nếu bệnh nhân dần dần hôn mê, đồng tử giản, thậm chí nôn mửa, đầu đau, cổ cứng, nói lên chính khí dần dần suy yếu, tà khí ngày càng thịnh, bệnh tình nặng thêm.
Trúng tạng phủ trước tiên, nếu tâm trí dần dần trở nên rõ ràng, liệt nữa người không nặng hơn hoặc có thể hồi phục được, bệnh chuyển từ nặng sang nhẹ, bệnh tình thuận, tiên lượng là tốt.
Nếu mắt không nhìn thấy, hoặc đồng tử giản, hoặc đột nhiên nắc cụt nhiều, hoặc đột nhiên uất ức ngất xỉu, tứ chi co giật không ngừng, hoặc lưng bụng bỗng nhiên nóng bỏng mà tứ chi thì mát thậm chí tay chân quyết nghịch, hoặc thấy đới dương (Sắc mặt đỏ nhợt, khí dương ở dưới vượt lên, như người bị bệnh hư lao đến quá trưa thì hơi sốt và 2 gò má đỏ hồng) cùng với nôn ra máu, tất cả đều thuộc bệnh tình nghịch chuyển, khó mà cứu vãn
B. NGUYÊN TẮC TRỊ LIỆU
Trong giai đoạn cấp tính xuất hiện chứng trạng ngọn thực, cấp tắc trị kỳ tiêu (trị ngọn trước), trị liệu nên khứ tà là chính, thường dùng pháp bình can tức phong, thanh hóa đàm nhiệt, hóa đàm thông phủ, hoạt huyết thông lạc, tỉnh thần khai khiếu. Bế và Thoát 2 chứng cần phân biệt trị nên khử tà khai khiếu tỉnh thần và phù chính cố thoát, cứu âm hồi dương. Nội bế ngoại thoát thì tỉnh thần khai khiếu cùng phù chính cố bổn có thể kiêm dùng. Trong giai đoạn hồi phục và giai đoạn di chứng, đa phần hư thực lẫn lộn, tà thực không rõ ràng mà chính khí hư xuất hiện, trị nên phù chính khứ tà, thường dùng pháp dục âm tức phong, ích khí hoạt huyết
CÒN TIẾP ...
BỆNH CHỨNG THUỐC ĐIỀU TRỊ BỆNH TRÚNG PHONG (kỳ 2)
CÒN TIẾP ...
BỆNH CHỨNG THUỐC ĐIỀU TRỊ BỆNH TRÚNG PHONG (kỳ 2)