ĐẠI Y THIỀN SƯ TUỆ TĨNH
I. TIỂU SỬ
Tuệ Tĩnh là đại danh y trước Hải Thượng Lãn Ông; một bậc đại thiện, đại nho, đại y và dược; một nhà sư (Tuệ Tĩnh thiền sư), chuyên làm thuốc, cứu nhân độ thế.
Theo truyền thuyết ở địa phương, Tuệ Tĩnh sinh năm canh ngọ 1330 dưới triều Trần Dụ Tông (thế kỷ XIV). Tuệ Tĩnh vốn có nguyên danh là Nguyễn Bá Tĩnh, tự Linh Đàm, hiệu Tráng Tử Vô Dật, Hồng Nghĩa, đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh (cũng gọi là Huệ Tĩnh). Ông xuất thân từ một gia đình bần nông, cha là Nguyễn Công Vỹ, mẹ là Hoàng Thị Ngọc ở làng Xưa thuộc tổng Văn Thai, phủ Thượng Hồng (nay là làng Nghĩa Phú, xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương)
Đại Y Thiền Sư Tuệ Tĩnh |
Sử sách ghi lại: Tuệ Tĩnh lên sáu tuổi thì mồ côi cả cha lẫn mẹ, được sư cụ chùa Hải Triều ở Yên Trang gần đấy đưa về nuôi cho ăn học (chùa Hải Triều sau gọi là chùa Nghiêm Quang, tức chùa Giám, xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng). Đến 10 tuổi, Bá Tĩnh lại được sư cụ chùa Giao Thủy ở Sơn Nam (Nam Ðịnh) đưa về cho học với các nhà sư chùa Dũng Nhuệ trong huyện. Chùa trồng nhiều hoa huệ, một hôm Bá Tĩnh đối được vế đối về hoa huệ trắng trong, cao thượng, sư ông liền đặt cho tên hiệu rất đẹp đẽ và nhân ái đó là Huệ Tĩnh (tại đây ông còn được gọi là Tiểu Huệ). Ông được học văn và học thuốc để giúp việc chữa bệnh ở chùa.
Năm 22 tuổi (1351), Tuệ Tĩnh đi thi Hương và đỗ nhất bảng dưới triều vua Trần Dụ Tông, nhưng ông không ra làm quan mà vẫn ở chùa đi tu và lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Ông tiếp tục việc chữa bệnh giúp dân ở chùa này và phát triển thêm một số cơ sở chữa bệnh ở các chùa lân cận, như chùa Hộ Xá (Nghĩa Xá). Năm 30 tuổi, ông trở về trụ trì chùa Yên Trang. Ông đã tu bổ lại chùa này và 24 ngôi chùa khác ở hạt Sơn Nam và quê hương, đưa các chùa này thành y xá chữa bệnh, đồng thời huấn luyện y học cho các tăng ni để mở rộng việc chữa bệnh làm phúc.
Biến nhà chùa thành bệnh xá, chăm sóc người ốm yếu, giúp dân qua tình cảnh nguy nan;
Biến Phật tử thành lương y, chữa trị bệnh hiểm nghèo, giúp dân khỏi nỗi đau thảm thiết.
Năm 45 tuổi (1374), ông thi Ðình và đậu Hoàng giáp. Trước tình cảnh nhân dân đói khổ bệnh tật, Tuệ Tĩnh tiếp tục không ra làm quan mà chọn nghề thầy thuốc để cứu nhân độ thế và nương nhờ của Phật tu nhân tích đức để sống từ bi cứu thế, theo đuổi chí hướng suốt đời nghiên cứu thuốc nam chữa bệnh cứu người.
II. SỰ NGHIỆP
Tuệ Tĩnh chuyên tâm nghiên cứu y học giáo lý, xây dựng nền móng của y dược cổ truyền Việt Nam với truyền thống chữa bệnh bằng thuốc nam. Ông đã gây dựng phong trào trồng thuốc ở gia đình, vườn đền chùa và thu trữ thuốc theo thời vụ để có sẵn thuốc chữa bệnh kịp thời. Từ trong cỏ cây, hoa lá, củ quả phong phú của đất mẹ Việt Nam, ông sưu tầm các bài thuốc giản dị, thông dụng trong dân gian và sáng tạo lên những bài thuốc đơn giản mà công dụng, cứu giúp được nhiều người bệnh nghèo khổ, dập tắt những trận dịch lớn, chữa bệnh cho dân.
Sự nghiệp của Tuệ Tĩnh đã thúc đẩy nguồn dược liệu Việt Nam phát triển, xây dựng quan điểm y học dân tộc đại chúng. Phương châm của ông là “Nam dược trị nam nhân” (thuốc nam chữa bệnh người Nam). Quan điểm này đã thể hiện tư tưởng đầy biện chứng về mối quan hệ mật thiết giữa con người với môi trường sống xung quanh, đề cao ý thức tự lực, tự cường. Ông trở thành người có công lao to lớn trong việc xây dựng nền y học độc lập, tự chủ, sát với thực tế Việt Nam, được nhân dân tôn là vị Thánh thuốc nam Việt Nam nhiều thế kỷ qua. Không chỉ là một thầy thuốc tài ba chữa bệnh cứu dân, ông còn tự mình truyền bá phương pháp vệ sinh, tổ chức cơ sở chữa bệnh trong nhà chùa và trong làng xóm, nhắc nhở mọi người chú ý nguyên nhân gây bệnh, tìm biện pháp phòng bệnh tích cực. Ông nhấn mạnh tác dụng việc rèn luyện thân thể, sinh hoạt điều độ và nêu phương pháp dưỡng sinh tóm tắt trong 14 chữ:
“Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần
Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình”
Theo cuốn: "Hải Dương phong vật chí" chép: "Tuệ Tĩnh tiên sinh, thầy thuốc danh tiếng ở Nghĩa Phú, huyện Cẩm Giàng, chuyên dùng thuốc nam chữa bệnh rất công hiệu, có chép các tập dược tính chỉ nam và 13 phương gia giảm truyền lại đời sau" Ông đã để lại cho đời sau công trình y dược dân tộc cổ truyền được tổng hợp trong bộ sách giá trị là Nam Dược Thần Hiệu chia làm 10 khoa ghi tên và công dụng chữa bệnh của 499 vị thuốc, tổng kết các phương pháp chữa 182 loại bệnh bằng 3.873 phương thuốc. Đặc biệt, bộ Hồng Nghĩa Tư Giác Y Thư (2 cuốn). Cuốn thượng: "Nam Dược Quốc Ngữ Phú" gồm 590 tên vị thuốc nam và "Trực Giải Chỉ Nam Dược Tính Phú" gồm đặc tính của 220 vị thuốc nam viết bằng thơ Đường luật (nôm) và cuốn hạ “Y luận", là sách viết về các lý luận từ âm dương ngũ hành sinh hóa vào con người trong tiết khí bốn mùa, sự ảnh hưởng vào bệnh tật, cách điều trị lâm sàng. Và "Thập tam phương gia giảm" phụ "Bổ âm đơn và dược tính phú" bằng chữ Hán. Là sách hướng dẫn gia, giảm khi dùng thuốc chữa bệnh.
Lời tựa của Nam dược thần hiệu được viết vào cuối hè năm Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717) có đoạn viết: “Thiên Nam khải vũ, nghiệp y thuật giả vô lự thiên bách gia, phỏng kỳ trứ thư lập ngôn, tân lương trị học giả tắc mộc thượng ngư dã”. Có nghĩa: “Trời Nam mở nước, nghiệp nhà y kể có trăm nghìn người; nhưng thử tìm hỏi xem ai trong số đó có trước thư lập ngôn để bắc cầu mở bến cho những người muốn theo học thì thấy rằng ít ỏi như cá trên cây! Lời tựa sách Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư có đoạn viết: “…bậc lão túc biệt hiệu Tuệ Tĩnh, người làng Nghĩa Phú, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng, là một vị sư cụ, nghiên cứu rộng về học thuyết âm dương, tìm hiểu sâu về bí truyền Kỳ Biển, chép ra bộ bản thảo bằng quốc âm có hơn 630 vị, lại theo kinh nghiệm đem 13 phương chữa tạp bệnh và 37 cách chữa thương hàn dịch ra thành sách, chỉ đường mở lối, dạy bảo mọi người, thật cả là một tấm lòng nhân hậu…”
Năm giáp tý 1384, Danh y Tuệ Tĩnh 55 tuổi và đang là một thầy thuốc lỗi lạc, được vua phái đi sứ sang Trung Quốc cho nhà Minh. Tại đây, ông đã có công chữa khỏi bệnh cho Tống Vương Phi hoàng hậu, được vua Minh cảm tài phong cho danh hiệu “Đại Y Thiền Sư” và giữ lại làm việc ở Viện Thái y Trung Quốc. Từ đó, ông không một lần được quay lại quê hương. Tuy được trọng dụng nhưng ông luôn đau đáu nhớ về tổ quốc, biết số phận mình sống nhờ thác gửi, nên ông đã di ngôn để tạc vào bia mộ dòng chữ: "Về sau có ai bên nước nhà sang, nhớ cho hài cốt tôi về với". Một thời gian sau ông mất ở Giang Nam, Trung Quốc nhưng không rõ năm nào.
“Lúc trẻ thơ đã một thân côi cút, nương cửa chùa, bát cơm chay, manh áo thụng, biết mấy gian nan;
Khi tuổi già lại một bóng lẻ loi, thác phương Bắc, nấm mồ lạc, nắm xương tàn, không còn ai biết”
Gần ba trăm năm sau, năm 1690 Tiến sĩ Nguyễn Danh Nho (1638-1699), là người cùng làng Nghĩa Phú, được cử làm trưởng đoàn xứ bộ của Việt Nam sang Trung Quốc bàn việc hoạch định địa giới đất đai. Trên đường đi, ông đã tìm thấy mộ Tuệ Tĩnh ở bên sông Trường Giang. Nhận ra là người cùng làng, ông vô cùng xúc động trước lời nhắn gửi thiết tha, thể hiện tình yêu quê hương cháy bỏng, luôn hướng về quê hương, mong muốn được trở về của Tuệ Tĩnh. Vì đang trên đường đi kinh lý nên ông đã sao chép bia mộ và tạc khắc bia đá mang về. Tương truyền: vận chuyển bằng đường thủy, thuyền chở bia về cánh đồng Văn Thai ở địa điểm tiếp giáp giữa làng Văn Thai và Làng Nghĩa Phú quê hương của Tuệ Tĩnh thì bị lật, bia rơi xuống và không lấy lên được. Ít lâu sau nước cạn, nhân dân đã tìm thấy tấm bia. Thấy doi đất ở đây có hình con dao cầu (con dao thái thuốc Nam) nhân dân cho rằng đây là nơi địa linh, Đại y Thiền sư Tuệ Tĩnh muốn tấm bia khắc di nguyện của mình dừng chân nên đã chọn để linh ứng, vì vậy đã đắp đất, dựng bia, lập đền để thờ cúng, gọi là Đền Bia.Tuệ Tĩnh là bậc đại danh y, người đã mở đường cho việc nghiên cứu và ứng dụng thuốc nam. Truyền thống y học của ông đã được đời sau thừa kế và phát huy rạng rỡ trong việc bảo vệ sức khoẻ nhân dân, sự nghiệp trước tác của ông đã giữ một vị tri trọng đại trong lịch sử y học dân tộc Việt Nam.
Cuộc đời và thân thế, sự nghiệp của ông là những bài học về đạo lý làm người mà đến tận hôm nay vẫn còn nguyên giá trị. Vì vậy, nhân dân ta đã lập đền thờ ông: Đền Thánh Thuốc Nam ở quê hương thôn Nghĩa Phú (nơi ông sinh ra), miếu Nghè ở chùa Giám (nơi ông hành nghề thuốc) và đền Bia. Ngoài ra, ông còn được thờ là Thành hoàng ở xã Yên Lư, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng (có sắc phong là Thượng thượng đẳng phúc thần năm 1572, theo thần phả do Nguyễn Bính, Đông các đại học sĩ ở Viện Cơ mật triều Lê soạn). Ngày nay, các di tích nói trên đã được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích lịch sử để tưởng nhớ công đức của vị Đại danh y Tuệ Tĩnh đối với sự nghiệp y học dân tộc. Ông là hình ảnh cao đẹp của người thầy thuốc với kiến thức uyên thâm, với tinh thần trách nhiệm cao cả trong nghề nghiệp, lòng nhẫn nại, tận tâm, đức hi sinh và lòng thương yêu người bệnh vô bờ bến. Ông là tấm gương sáng về Y đạo, Y thuật cho đời sau noi theo”
Dương Anh Khải sưu tầm tổng hợp